ĐÔI NÉT VỀ NHẠC SĨ LƯU HỮU
PHƯỚC
Lưu Hữu Phước (1921-1989)
là một nhạc sĩ, tác giả của những bản hùng ca, giải phóng; tác phẩm của ông
luôn gắn với những sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc.
-
Ông là Giáo sư, Viện sĩ, Nhà lý luận âm nhạc; nguyên
Bộ trưởng Bộ
Thông tin Văn hóa của Chính phủ Cách
mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam; nguyên Đại biểu Quốc hội,
Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Giáo dục của Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Thời trẻ và
bước đầu của sự nghiệp
-
Lưu Hữu Phước còn có những bút danh khác: Huỳnh Minh
Siêng[1], Long Hưng, Anh Lưu, Hồng Chí. Ông
sinh ngày 12 tháng 9 năm
1921 tại quận Ô Môn, tỉnh Cần Thơ (nay
thuộc thành phố Cần Thơ). Thuở nhỏ được cha cho học đàn kìm,
về sau có chơi cả mandoline, guitare và tự học lý thuyết âm nhạc.
-
Khoảng cuối thập niên 1930, ông lên Sài Gòn học tại trường Petrus Ký. Trong thời gian này, ông kết
thân với Huỳnh Văn Tiểng, Mai Văn Bộ, làm thành bộ 3 Huỳnh - Mai - Lưu,
thành lập Câu lạc bộ Học sinh (Scholar Club) ở trường trung học Petrus Ký... là
đầu mối hội tụ những học sinh, sinh viên yêu nước. Cũng trong thời gian này,
ông sáng tác bài hát "La Marche des
Étudiants" vào cuối năm 1939, và cùng Mai Văn Bộ đặt lời tiếng
Pháp để làm bài hát chính thức của Câu lạc bộ.[2]
-
Sau khi đỗ tú tài, Lưu Hữu Phước ra Hà Nội học trường
Y - Dược, thuộc Viện Đại học Đông
Dương (1940-1944]. Thời này, do ảnh hưởng của phong trào Mặt trận Bình dân nên phong
trào đấu tranh chính trị của sinh viên Đông Dương rất mạnh mẽ. Lưu Hữu Phước
nhanh chóng trở thành một trong những thủ lĩnh của phong trào, và có dịp tiếp
xúc với một số thành viên của Việt Minh. Trong những đợt tổ chức các hoạt
động về nguồn của sinh viên, Lưu Hữu Phước đã sáng tác được nhiều ca khúc nổi
tiếng, như: "Non sông gấm vóc", "Bạch Đằng Giang", "Ải
Chi Lăng", "Hát giang trường hận" (sau đổi tên là Hồn tử sĩ),
"Hờn sông Gianh", "Người xưa đâu tá" và "Hội nghị Diên
Hồng", được xem là đỉnh cao của thể loại bài hát về đề tài lịch sử của
Việt Nam, nhằm hun đúc tình thần dân tộc cho thanh niên Việt Nam[cần dẫn nguồn].
Theo bà Trịnh Kim Vinh thì, về ca khúc mở đầu cho loạt bài hát yêu nước chính
là bài "Non sông gấm vóc", được ông sáng tác năm 16 tuổi, chứ không
phải bài "Bạch Đằng giang" như nhiều người nghĩ[cần dẫn nguồn].
-
Nhân cuộc hành hương về Đền Hùng nhân ngày Giỗ tổ Hùng Vương năm
1942, nhằm thức tỉnh sinh viên từ bỏ mộng học giỏi đỗ cao để làm quan cho thực
dân Pháp, đồng lòng quyết tâm trau dồi ý thức cứu dân, cứu nước, sẵn sàng tiến
lên "đáp lời sông núi" khi Tổ quốc cần, ông đã sửa phần lời Việt của
bài "La Marche des Étudiants" thành bài "Thanh niên hành khúc",
biểu diễn dưới chân núi
Nghĩa Lĩnh do một dàn hợp xướng mấy chục người trình diễn[cần dẫn nguồn].
-
Bên cạnh đó, ngày 21 tháng 3 năm 1943, vở ca kịch Tục lụy của
ông được trình diễn tại Nhà hát Lớn Hà Nội.
Cái tên Lưu Hữu Phước trở nên nổi tiếng trong giới thanh niên Việt Nam thời bấy
giờ[cần dẫn nguồn].
-
Năm 1944, Lưu Hữu Phước được Mặt
trận Việt Minh giao nhiệm vụ vào Nam tham gia vận động cách mạng cùng với lúc
nổ ra phong trào của đông đảo sinh viên ba miền Nam-Trung-Bắc rủ nhau bỏ học để
trực tiếp tham gia hoạt động cách mạng. Nhóm Lưu Hữu Phước, Huỳnh Văn Tiểng,
Mai Văn Bộ và Đặng Ngọc Tốt trong một đêm đã tập trung soạn ba bài hát:
"Xếp bút nghiên", "Mau về Nam" và "Gieo ánh sáng"
để kịp thời cổ vũ cho phong trào này, còn được gọi là phong trào Xếp bút
nghiên, rầm rộ kéo dài đến mãi tận ngày Cách mạng tháng Tám năm 1945,
cùng với sự ra đời của bài ca "Khúc khải hoàn" của ông[cần dẫn nguồn].
Tham gia
công tác văn nghệ
-
Sau khi Pháp gây hấn ở Nam Bộ, Lưu Hữu Phước tham gia
công tác tuyên truyền với chức vụ Giám đốc phòng xuất bản Nam Bộ trong một thời
gian ngắn. Tháng 5 năm 1946, Lưu Hữu Phước được điều động ra Hà Nội, nhận nhiệm
vụ thành lập Trung ương Nhạc viện (thành lập tháng 9 năm 1946), sau đó ông cùng
tập thể Hội Văn hoá Cứu quốc tản cư đi kháng chiến chống Pháp ở Việt Bắc. Ông được giao nhiệm vụ thành lập đội
Thiếu nhi tuyên truyền xung phong, sau được đổi tên là Đoàn nhạc kịch Thiếu nhi
kháng chiến thuộc Trung ương Nhạc viện. Đoàn đã lần lượt trình diễn một số vở
ca kịch do ông sáng tác như Con thỏ ngọc, Diệt sói lang, Phá
mưu bù nhìn, Hai chàng lưng gù và Hái hoa dâng Bác (nhân
kỷ niệm 60 năm ngày sinh chủ tịch Hồ Chí Minh, về sau
được Thái Ly chuyển soạn thành vở vũ kịch Chúc
thọ Bác Hồ vào năm 1960, vở vũ kịch đầu tiên của Việt Nam)[cần dẫn nguồn].
Năm 1950, ông được giao nhiệm vụ thành lập Trường Thiếu nhi Nghệ thuật và được
cử làm Giám đốc.
-
Trong chiến tranh Đông
Dương, ông là tác giả của nhiều tác phẩm âm nhạc như "Ca ngợi
Hồ Chủ tịch", "Đông Nam Á châu đại hợp xướng", "Tuổi hai
mươi", "Thiếu nhi thế
giới liên hoan", "Nông dân vươn mình", "Hăngri
Máctanh (Henri Martin)", "Em yêu chị Rây-mông", "Cả cuộc
đời về ta"...
-
Trong chiến tranh Việt Nam,
từ năm 1954 đến 1965, ông làm Trưởng ban Nghiên cứu Nhạc-Vũ thuộc Vụ Nghệ
thuật, Bộ Văn hoá, sau đó làm Vụ trưởng Vụ Âm nhạc và Múa, ngoài ra còn được
bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam, Ban
Thư ký Hội Nhạc sĩ Việt Nam[cần dẫn nguồn].
Ông cũng có công tổ chức sưu tầm dân ca và đã cho ra đời công trình nghiên cứu quan họ. Ông còn góp công thành lập Trường Âm
nhạc Việt Nam (nay là Học viện âm nhạc quốc gia Việt Nam), Trường
Múa, Trường Sân khấu Điện ảnh, Nhà hát Giao hưởng Hợp xướng Nhạc Vũ Kịch Việt
Nam[cần dẫn nguồn].
-
Tháng 2 năm 1965,
Lưu Hữu Phước được cử vào Nam, giữ chức Chủ tịch Hội
Văn nghệ Giải phóng, sau đó Bộ trưởng Bộ
Thông tin Văn hóa của Chính phủ Cách
mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Trong giai đoạn này, ông
đã sáng tác các bài hát nổi tiếng như "Dưới cờ Đảng vẻ vang",
"Tình Bác sáng đời ta", "Bài hát Giải phóng quân",
"Giờ hành động", "Hành khúc giải phóng", "Xuống
đường", "Tiến về Sài Gòn", đặc biệt là "Giải phóng
miền Nam" – bài hát chính thức của Mặt
trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.
-
Sau năm 1975, ông trở về làm Viện trưởng Viện Nghiên
cứu Âm nhạc (1978-1989), được phong học hàm Giáo sư và Viện sĩ thông tấn của Viện Hàn
lâm Nghệ thuật CHDC Đức,
được bầu làm Chủ tịch Hội đồng Âm nhạc Quốc gia, Thành viên Hội đồng Âm nhạc
Quốc tế, ngoài ra còn là Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Giáo dục của Quốc hội, Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, Phó Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Hội Liên hiệp
Văn học Nghệ thuật Việt Nam[cần dẫn nguồn].
-
Ông mất ngày 8 tháng 6 năm 1989 tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Sự nghiệp âm
nhạc
-
Lưu Hữu Phước được xem là một trong những nhạc sĩ đầu
đàn của giới nhạc sĩ Việt Nam, đại diện cho phái âm nhạc Nam Bộ trong thời điểm
khởi đầu của nền tân nhạc. Ông là một tên tuổi lớn trong nền âm nhạc cách mạng
Việt Nam, một danh nhân văn hóa Việt Nam; là một trong những người đầu tiên sử
dụng rất thành công thể loại hành khúc – một thể loại từ âm nhạc phương Tây Ông
đã trở thành tác giả của những chính ca xuất sắc, có tầm tư
tưởng lớn, giá trị nghệ thuật rất cao và có giá trị lịch sử. Ông là tác giả
Quốc ca của cả hai chính thể đối lập nhau là Việt Nam Cộng hòa và Cộng hòa Miền
Nam Việt Nam. Những bài chính ca tiêu biểu của ông gồm:
·
"Thanh niên hành khúc":
Bài hát chính thức của tổ chức Thanh niên Tiền phong, sau này Chính quyền Việt Nam Cộng hòa sửa
lời và chọn làm Quốc ca với
tên Tiếng gọi công dân.
·
"Lên đàng":
Bài hát chính thức của Hội Liên
hiệp Thanh niên Việt Nam.
·
"Hồn tử sĩ": Bài
hát được dùng trong các lễ tang theo nghi thức nhà nước của Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Bài hát
này trước 1975 cũng được Việt Nam Cộng hòa sử
dụng trong các nghi thức lễ tang quân đội.
·
"Giải phóng
miền Nam": Bài hát chính thức của Mặt
trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Quốc ca Cộng hòa
miền Nam Việt Nam.
-
Ngoài thể chính ca, Lưu Hữu Phước viết ca
khúc trữ tình cũng rất thành công. Có lẽ do những yêu cầu của xã hội, của thời
cuộc lúc đó mà ông đã phát huy sở trường nhiều ở thể chính ca, ít
sáng tác bài ca trữ tình. Lưu Hữu Phước còn sáng tác cho thiếu nhi rất nhiều
bài hát có giá trị lớn, nổi tiếng một thời, đến nay vẫn là chuẩn mực cho thể
loại ca khúc thiếu nhi: "Thiếu nhi thế
giới liên hoan", "Reo vang bình minh",...
Danh hiệu,
tôn vinh
-
Với những đóng góp của ông vào nền âm nhạc Việt Nam,
ông đã được Nhà nước Việt Nam tặng thưởng nhiều huân chương, huy chương, trong
đó có Huân chương Độc lập hạng
nhất (1987), giải thưởng Hồ Chí
Minh về văn học nghệ thuật đợt 1 (1996)
·
Sau năm 1975,
được phong học hàm Giáo sư và Viện sĩ thông tấn của Viện Hàn lâm Nghệ thuật CHDC Đức.
·
Một Công viên tại Quận Ninh Kiều, Thành phố Cần Thơ mang tên Lưu
Hữu Phước. Công viên Lưu Hữu Phước có diện tích là 20.055 m². Nhìn từ bên
ngoài công viên trông giống một ốc đảo xanh giữa lòng Thành phố Cần Thơ.[3]
·
Một Trường Trung học Phổ thông tại Quận Ô Môn, Thành
phố Cần Thơ mang tên Trường Trung học Phổ thông Lưu Hữu Phước.[4]
·
Tên của ông được đặt tên cho một con phố ở Hà Nội nằm trong khu đô thị Mỹ Đình II.
Phố Lưu Hữu Phước dài 490m, rộng 17,5m, từ đường Lê Đức Thọ đến đường Nguyễn Cơ Thạch,
thuộc phường Mỹ Đình 2, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội[5].
·
Kể từ ngày 07/10/2016, đường Lưu Hữu Phước được kéo
dài sang phía bên kia đường Nguyễn Cơ Thạch, qua các trường Lê Quý Đôn, Việt Úc
và khu chung cư An Lạc.
Ca khúc
·
Ải Chi Lăng
·
Bạch Đằng Giang
·
Bài hát giải phóng quân
·
Bạn đường đi hội đền Hùng
·
Ca ngợi Hồ chủ tịch (Lãnh tụ ca)
·
Dưới cờ Đảng vẻ vang
·
Gieo ánh sáng
·
Giờ hành động
·
Hành khúc Giải phóng
·
Hành khúc học sinh trường Châu Văn Liêm
·
Hội nghị Diên Hồng
·
Hờn sông Gianh (1944)
·
Hương Giang dạ khúc
·
Thượng Lộ tiểu khúc
·
Khúc khải hoàn
·
Kinh cầu nguyện
·
Lên đàng
·
Lục quân Trần Quốc Tuấn
·
Lời ru chim Lạc
·
Non sông gấm vóc
·
Reo vang bình minh
·
Thanh niên 3 sẵn sàng[6]
·
Tấm ảnh Bác Hồ
·
Tiến về Sài Gòn
·
Tiếng gọi thanh niên (Thanh
niên hành khúc, Tiếng gọi Công dân)
·
Tình
Bác sáng đời ta (1969)
·
Tuổi 20
·
Việt nữ gọi đàn
·
Vui xuân
·
Xuống đường
Các thể loại khác
Ca cảnh
·
Con Thỏ Ngọc
·
Diệt sói lang
·
Hội nghị Diên hồng
Ca kịch
·
Bông sen
·
Phá mưu bù nhìn
Kịch múa
·
Hái hoa dâng Bác.
Nguồn : Wikipedia.
0 comments:
Post a Comment